Nền kinh tế trung tâm dữ liệu tại Việt Nam: Thông tin chuyên sâu về ngành và các quy định chính

Nền kinh tế trung tâm dữ liệu của Việt Nam dự kiến sẽ có tốc độ tăng trưởng ổn định, với dự kiến đạt 1,03 tỷ USD vào năm 2028.

Triển vọng ngành

Tăng trưởng kinh tế trung tâm dữ liệu của Việt Nam được thúc đẩy bởi tốc độ tăng trưởng kép hàng năm (CAGR) là 10,68% từ năm 2022 đến năm 2028. Việt Nam có 77,93 triệu người dùng Internet vào tháng 1 năm 2023, tăng 7,3% so với năm trước.

Nền kinh tế kỹ thuật số ở Việt Nam đang trải qua những chuyển đổi đáng kể do các quy định ngày càng phát triển và sự thúc đẩy số hóa mạnh mẽ hơn. Các quy định gần đây ưu tiên chủ quyền dữ liệu, bảo vệ thông tin cá nhân và an ninh mạng. Các tiêu chuẩn bản địa hóa dữ liệu có hiệu lực từ ngày 1 tháng 10 năm 2022 để đảm bảo dữ liệu ở lại Việt Nam. Chính phủ cũng tập trung vào các sáng kiến số hóa, chẳng hạn như ưu đãi thuế cho đầu tư công nghệ cao, quản trị điện tử, mở rộng kết nối cáp quang và triển khai 5G. Những chính sách này đã kích thích tăng cường đầu tư vào các trung tâm dữ liệu ở Việt Nam.

Sự phát triển trong việc thúc đẩy kết nối viễn thông

Về kết nối viễn thông, Việt Nam đã có những tiến bộ, trong đó có việc triển khai mạng 5G thương mại vào tháng 12 năm 2020. Vùng phủ sóng mạng 5G hiện đã mở rộng tới 40/63 tỉnh, thành tại Việt Nam. Bộ Thông tin và Truyền thông tiến hành đấu giá phổ tần để mở rộng dịch vụ 4G, 5G. Những nỗ lực cũng đang được tiến hành để phát triển công nghệ 6G.

Việt Nam được kết nối với các nước châu Á – Thái Bình Dương và châu Âu, Trung Đông, châu Phi cũng như Hoa Kỳ thông qua năm tuyến cáp ngầm đang hoạt động. Các tuyến cáp bổ sung như Cáp Asia Direct và Cáp 2 Đông Nam Á – Nhật Bản sẽ tăng cường hơn nữa khả năng kết nối của Việt Nam vào năm 2023/2024.

“Chương trình Chuyển đổi Kỹ thuật số Quốc gia đến năm 2025” nhằm mục đích chuyển 50% hoạt động kinh doanh sang nền tảng kỹ thuật số vào năm 2025. Việc triển khai trung tâm dữ liệu biên dự kiến sẽ tăng do khả năng kết nối của mạng 5G ngày càng tăng, cung cấp kết nối chặng cuối và các dịch vụ có độ trễ thấp hơn. Các mục tiêu của chương trình bao gồm một nền kinh tế kỹ thuật số đóng góp tới 20% GDP, đại diện ít nhất 10% cho nền kinh tế kỹ thuật số trong mỗi lĩnh vực, tăng trưởng năng suất hàng năm không dưới 7% và xếp hạng trong top 50 về các chỉ số khác nhau đo lường sự phát triển CNTT-TT, khả năng cạnh tranh toàn cầu và sự đổi mới.

Ngoài ra, các mục tiêu liên quan đến phát triển xã hội kỹ thuật số bao gồm mở rộng cơ sở hạ tầng internet cáp quang, đảm bảo cung cấp rộng rãi các dịch vụ 4G/5G và điện thoại thông minh, tăng cường áp dụng tài khoản séc kỹ thuật số và cải thiện thứ hạng an ninh mạng.

Khuyến khích ngành và chính sách thuế thuận lợi

Để thúc đẩy tăng trưởng trong lĩnh vực CNTT-TT, Chính phủ Việt Nam đã đưa ra các chính sách thuế thuận lợi và khuyến khích đầu tư vào công nghệ cao. Các công ty hoạt động trong lĩnh vực công nghệ số có thể được hưởng lợi từ việc giảm thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp 10% trong 15 năm cùng nhiều lợi ích khác.

Thị trường trung tâm dữ liệu của Việt Nam thu hút đầu tư từ cả những người mới tham gia cũng như những nhà khai thác lâu đời. Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội đóng vai trò là trung tâm trung tâm dữ liệu lớn, có tổng cộng 27 trung tâm dữ liệu. Các phân khúc ngành bao gồm cơ sở hạ tầng CNTT, cơ sở hạ tầng điện, cơ sở hạ tầng cơ khí, xây dựng chung, bảo mật và tuân thủ cũng như các tiêu chuẩn cấp bậc.

Nhìn chung, nền kinh tế trung tâm dữ liệu của Việt Nam cho thấy triển vọng tăng trưởng đầy hứa hẹn nhờ các quy định thuận lợi, khả năng kết nối ngày càng tăng và sự hỗ trợ của chính phủ cho các sáng kiến số hóa.

Khung pháp lý áp dụng cho trung tâm dữ liệu tại Việt Nam

Khung pháp lý áp dụng cho trung tâm dữ liệu tại Việt Nam bao gồm:

  • Luật Đầu tư số 61/2020/QH14: Luật này điều chỉnh hoạt động đầu tư tại Việt Nam, bao gồm cả việc thành lập doanh nghiệp trung tâm dữ liệu.
  • Nghị định số 25/2011/ND-CP: Nghị định này hướng dẫn thực hiện các quy định liên quan đến viễn thông, trong đó bao gồm hoạt động của trung tâm dữ liệu.

Các công ty trung tâm dữ liệu nước ngoài hoạt động tại Việt Nam có hai lựa chọn:

  • Hợp đồng hợp tác kinh doanh (BCC): Các công ty nước ngoài có thể ký BCC với đối tác địa phương để vận hành trung tâm dữ liệu mà không cần thành lập công ty địa phương. BCC phải có sự tham gia của ít nhất một đối tác địa phương và tỷ lệ sở hữu nước ngoài không được vượt quá 100%.
  • Liên doanh (JV): Các công ty nước ngoài có thể thành lập một thực thể địa phương thông qua một liên doanh, vì các hoạt động kinh doanh trung tâm dữ liệu được phân loại là dịch vụ viễn thông theo luật pháp Việt Nam. Quyền sở hữu nước ngoài phải chịu những hạn chế cụ thể tùy thuộc vào loại dịch vụ được cung cấp.

Đối với Liên doanh:

  • Trong các dịch vụ không dựa trên cơ sở hạ tầng, tỷ lệ sở hữu nước ngoài không được vượt quá 65%.
  • Trong các dịch vụ dựa trên cơ sở vật chất, tỷ lệ sở hữu nước ngoài không được vượt quá 50%. Điều quan trọng là một số hiệp định thương mại và đầu tư quốc tế nhất định có thể tạo điều kiện cho sự linh hoạt trong tỷ lệ sở hữu nước ngoài.

Ngoài ra, nếu nhà đầu tư nước ngoài đã nắm giữ trên 20% vốn điều lệ của một doanh nghiệp viễn thông Việt Nam khác thì họ không được sở hữu quá 20% vốn điều lệ của một công ty trung tâm dữ liệu Việt Nam.

Tùy thuộc vào lộ trình đầu tư trung tâm dữ liệu được lựa chọn tại Việt Nam, một số thủ tục đăng ký nhất định được yêu cầu:

  • Trong trường hợp BCC, cả hai bên liên quan sẽ cần phải có Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư (IRC) để tiến hành đầu tư theo BCC.
  • Trong trường hợp là liên doanh, không chỉ cần có IRC mà còn cần có Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp (ERC) để thành lập liên doanh.
  • Nếu hoạt động kinh doanh trung tâm dữ liệu thuộc danh mục dịch vụ dựa trên cơ sở vật chất, thì việc phê duyệt Chính sách đầu tư từ Thủ tướng là điều cần thiết trước khi IRC được cấp. Bước bổ sung này rất quan trọng để tuân thủ quy định trong lĩnh vực cụ thể này.

Nghị định 25 ban hành ngày 6/4/2011 áp dụng cho lĩnh vực viễn thông. Nghị định này quy định chi tiết và hướng dẫn mới thi hành một số điều của Luật Viễn thông liên quan đến tỷ lệ sở hữu, đầu tư nước ngoài, phí quyền thương mại và vốn ủy quyền.

Thông lệ quốc tế trong khuôn khổ Liên hợp quốc, WTO và FTA

Các cam kết quốc tế của Việt Nam theo Liên hợp quốc, WTO và các hiệp định thương mại tự do cũng ảnh hưởng đến các quy định về trung tâm dữ liệu. Mặc dù có thể thiếu các quy định cụ thể cho trung tâm dữ liệu nhưng các thỏa thuận hiện có bao gồm các dịch vụ liên quan như thông tin trực tuyến và truy xuất cơ sở dữ liệu.

Luật về dịch vụ viễn thông và Internet

  • Luật Viễn thông số 41/2009/QH12
  • Nghị định số 25/2011/ND-CP
  • Nghị định số 53/2022/ND-CP (quy định của Luật An ninh mạng)
  • Nghị định số 72/2013/ND-CP
  • Thông tư số 17/2016/TT-BTTTT được sửa đổi bởi Thông tư số 08/2017/TT-BTTTT

Luật dữ liệu và An ninh mạng

  • Luật An toàn thông tin mạng số 86/2015/QH13 ngày 19/11/2015
  • Luật An ninh mạng số 24/2018/QH14 ngày 12/6/2018
  • Nghị định 53/2022/ND-CP ngày 15/8/2022 quy định chi tiết một số điều của Luật An ninh mạng
  • Nghị định số 13/2023/ND-CP ngày 17/4/2023 về bảo vệ dữ liệu cá nhân (Nghị định 13), có hiệu lực từ ngày 1/7/2023

Luật dữ liệu và an ninh mạng yêu cầu lưu trữ một số loại dữ liệu nhất định tại Việt Nam. Tổ chức nước ngoài có thể cần nội địa hóa việc lưu trữ dữ liệu hoặc thiết lập hiện diện tại Việt Nam nếu Bộ Công an yêu cầu. Cụ thể, nghị định 13/2023/ND-CP quy định về bảo vệ dữ liệu cá nhân, áp đặt nghĩa vụ đối với các tổ chức, cá nhân liên quan đến các dịch vụ liên quan đến trung tâm dữ liệu. Nó cũng hạn chế việc chuyển dữ liệu cá nhân của người Việt ra ngoài Việt Nam.

Xây dựng trung tâm dữ liệu

Việc xây dựng trung tâm dữ liệu phải tuân thủ các tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật cụ thể của quốc gia được nêu trong Thông tư 03. Chúng bao gồm các yêu cầu về thiết kế trung tâm dữ liệu, phòng chống cháy nổ, chống sét và nối đất.

  • Tiêu chuẩn quốc gia về yêu cầu trung tâm dữ liệu và hạ tầng kỹ thuật viễn thông nêu trong Tiêu chuẩn ISO 9250:2021 (hoặc tiêu chuẩn ANSI/TIA-942-B:2017 hoặc tiêu chuẩn Tier của Viện Uptime).
  • Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia (NTR) về trang thiết bị phòng cháy và chữa cháy áp dụng cho nhà và công trình quy định tại QCVN 06:2021/BXD.
  • NTR về chống sét liên quan đến trạm biến áp viễn thông và mạng cáp ngoại vi được quy định chi tiết tại QCVN 32:2020/BTTTT.
  • NTR về nối đất trạm viễn thông quy định tại QCVN 9:2016/BTTTT. Những quy định này rất cần thiết trong việc đảm bảo sự tuân thủ và an toàn của các trung tâm dữ liệu tại Việt Nam.

Những quy định này rất cần thiết trong việc đảm bảo sự tuân thủ và an toàn của các trung tâm dữ liệu tại Việt Nam.

Luật Đất đai

  • Luật Đất đai số 45/2013/QH13
  • Bộ luật Dân sự số 91/2015/QH13 ngày 24/11/2015

Theo Luật Đất đai số 45/2013/QH13 và Bộ luật Dân sự số 91/2015/QH13 tại Việt Nam, nhà đầu tư nước ngoài không được phép trực tiếp sở hữu đất để phát triển trung tâm dữ liệu. Tuy nhiên, có quy định cho phép nhà đầu tư nước ngoài thành lập trung tâm dữ liệu thông qua hợp đồng hợp tác kinh doanh (BCC) hoặc liên doanh (JV).

Trong trường hợp BCC, quyền sở hữu bất động sản phải thuộc về đối tác địa phương, sau đó đối tác này sẽ đóng góp cho BCC. Nhà đầu tư nước ngoài không được phép sở hữu bất động sản để phát triển trung tâm dữ liệu.

Đối với các liên doanh, quyền sở hữu đất đai cũng bị cấm. Thay vào đó, các liên doanh có quyền lựa chọn thuê đất của Nhà nước hoặc thuê lại đất trong khu công nghiệp từ một nhà phát triển khu công nghiệp dành riêng cho việc phát triển trung tâm dữ liệu. Mặc dù không thể sở hữu đất nhưng các liên doanh có thể giữ quyền sở hữu các tòa nhà trung tâm dữ liệu được xây dựng trên đất thuê. Mọi tài sản gắn liền với đất phải được đăng ký với cơ quan quản lý đất đai có liên quan.

Những thỏa thuận này cho phép các nhà đầu tư nước ngoài phát triển và duy trì cơ sở trung tâm dữ liệu tại Việt Nam đồng thời tuân thủ các quy định về quyền sở hữu đất đai của địa phương.

Luật Điện lực

Về Điện lực và sử dụng điện, có:

  • Luật Điện lực số 28/2004/QH11 ngày 03/12/2004

Theo luật điện lực hiện hành ở Việt Nam, cụ thể là Luật Điện lực số 28/2004/QH11, không có yêu cầu về hợp đồng mua bán điện đặc biệt dành riêng cho hoạt động của trung tâm dữ liệu. Luật cũng thiếu hướng dẫn về việc mua điện từ các Nhà sản xuất điện độc lập (IPP), ngoại trừ các IPP vận hành hệ thống năng lượng mặt trời trên mái nhà.

Tuy nhiên, có dự thảo quyết định được Thủ tướng Việt Nam đề xuất nhằm thiết lập chương trình thí điểm cho phép thỏa thuận mua bán điện trực tiếp giữa nhà sản xuất năng lượng tái tạo và người tiêu dùng, bao gồm cả trung tâm dữ liệu. Để tham gia chương trình này, các nhà máy điện tái tạo và người tiêu dùng, chẳng hạn như trung tâm dữ liệu, phải đăng ký với Bộ Công Thương (MOIT). MOIT sẽ đánh giá và lập danh sách những người tham gia đủ điều kiện. Chỉ những người trong danh sách mới có thể mua điện trực tiếp từ IPP.

Điều quan trọng cần lưu ý là dự thảo quyết định này vẫn chưa được hoàn thiện nhưng dự kiến sẽ được đẩy nhanh tiến độ vào năm 2023 sau khi Quy hoạch phát triển điện lực số 8 của Việt Nam được công bố vào ngày 15 tháng 5 năm 2023. Sự phát triển tiềm năng này có thể tạo cơ hội cho các trung tâm dữ liệu mua trực tiếp năng lượng tái tạo trong tương lai.